Đà Nẵng tìm hướng đi mới trong nuôi Cua Biển, Nguồn: Đăng Bình – Nông nghiệp Việt Nam.
Trung tâm Khuyến ngư nông lâm thành phố Đà Nẵng đã triển khai mô hình “Nuôi cua thương phẩm” đơn canh và xen canh với tôm chuyển giao cho 4 hộ nông dân làm điểm.
– Đến nay, mô hình đã khẳng định tính hiệu quả, vừa góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường, vừa đa dạng hóa các đối tượng nuôi; qua đó mở thêm hướng mới trong phát triển kinh tế cho các hộ.
– Lão nông Đỗ Trực, thôn Trường Định, xã Hòa Liên, huyện Hòa Vang là người nuôi tôm nước lợ xen canh cua thương phẩm vụ đầu tiên. Dù là người có thâm niên nuôi tôm hơn 15 năm nay nhưng cũng đã bao phen ông phải lao đao vì vật nuôi “khó tính” này. Dù vẫn biết nguy cơ cao trong vụ 2 nhưng nếu bỏ ao hoang thì không đành, nhiều hộ vẫn thả nuôi với số lượng ít hơn vụ chính.
– Vụ 2 năm nay, được Trung tâm hỗ trợ cua giống cùng kỹ thuật chăm sóc, ông Trực thả 2.000 con cua bột sản xuất nhân tạo trong ao nuôi tôm trên diện tích mặt nước gần 2.000 m2. Ông Trực cho biết, với cách nuôi xen canh, cua ăn thức ăn thừa của tôm nên giúp cải tạo đáng kể nguồn nước, môi trường đáy ao, giảm sử dụng thuốc lại cho thu nhập cao và ổn định.
– Nuôi cua xen canh tôm ở vụ 2 đã được người dân nơi đây áp dụng từ nhiều năm trước. Tuy nhiên, do không có nguồn cua giống chất lượng nên người dân nơi đây thu gom giống cua ngoài tự nhiên, vì vậy sản lượng cua thành phẩm không đồng đều.
– Ông Huỳnh Văn A ở thôn Trường Định cho biết, gia đình thả nuôi 2.000 con cua nhân tạo do Trung tâm Khuyến ngư nông lâm Đà Nẵng hỗ trợ trên diện tích 2.000 m2. Đến nay, cua phát triển tốt và đang cho thu hoạch với trọng lượng 4 con/kg. Với giá hiện nay gần 200 ngàn đồng/kg thì ao cua của ông cho lãi 20 triệu đồng sau khi trừ chi phí.
– Theo bà Ngô Thị Kim Cương, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến ngư nông lâm Đà Nẵng, việc chuyên canh tôm sẽ dễ gây ra ô nhiễm nguồn nước do thức ăn thừa lắng đọng dưới mặt ao, lâu ngày phát sinh dịch bệnh cho tôm. Trên thực tế nhiều năm qua, người nuôi tôm ở vụ 2 thôn Trường Định thường bấp bênh. Chính vì vậy, mô hình “Nuôi cua thương phẩm” đơn canh hoặc xen canh với tôm đã cơ bản khắc phục ô nhiễm môi trường.
– Các hộ nuôi cua giống nhân tạo được Trung tâm Khuyến ngư nông lâm Đà Nẵng mua từ trại sản xuất cua giống uy tín ở tỉnh Thừa Thiên – Huế, có kích cỡ đồng đều, sạch bệnh, sức đề kháng cao nên cua có tốc độ tăng trưởng nhanh, ít bệnh, năng suất thu hoạch đạt 50kg/sào.
– Kỹ sư Trần Lâm Hồng Hạnh, cán bộ kỹ thuật Trung tâm Khuyến ngư nông lâm Đà Nẵng cho biết, để có kết quả đó, thời gian qua, cán bộ kỹ thuật của Trung tâm thường xuyên phối hợp với 4 hộ nuôi thí điểm để kiểm tra quá trình sinh trưởng của cua, hướng dẫn kỹ thuật xử lý ao nuôi, chăm sóc và phòng trừ dịch bệnh; nhất là giai đoạn độ mặn của nguồn nước lợ nơi đây bị sụt giảm so với môi trường sống phù hợp của cua.
Nuôi cua lột trong hộp
Cua lột là một loại cua thương phẩm đặc biệt. Ở các tỉnh ven biển Nam Bộ sau mùa sinh sản tự nhiên vài tháng có nhiều cua con cỡ từ 25-60g/con. Người ta chọn loại cua đó để nuôi cua lột.
Công trình và thiết bị
– Hộp nuôi cua lột màu đen được làm từ nhựa PP chịu được va đập, nắng nóng.
– Thành hộp dày 1,2 – 2 mm. Phần nắp hộp nằm trên mặt nước cao 5 – 5,5cm
– Mặt trên có cắt lỗ 3x3cm để thuận lợi quá trình cho ăn.
– Đáy hộp có khoảng 12 lỗ, mỗi lỗ 8-10mm cho nước luân chuyển.
– Ngoài ra cần làm thêm hệ thống mái che, hệ thống cung cấp Oxy, máy quạt nước để đảm bảo môi trường tốt cho cua phát triển.
Chăm sóc và quản lý
– Cho ăn 2 lần/ngày, thức ăn là cá tạp, còng, nhuyễn thể 2 mảnh, phụ phẩm sò lông, sò điệp… Thường xuyên kiểm tra cua 2-3 lần/ngày trong suốt quá trình cua lột.
– Cua sau khi nuôi từ 28-30 ngày sẽ tiến hành lột. Cua lột vỏ nhiều nhất từ 34-40 ngày sau khi nuôi sau đó giảm dần. Thời gian cua lột từ 8h-0h. Cua lột sau khi bắt phải tiến hành thả vào nước ngọt 15-20 phút rồi mới đem đi bảo quản.
– Các chỉ số môi trường phù hợp để cua phát triển: Độ mặn: 15-25 ‰, Nhiệt độ: 26-30 ºC, DO: >3ppm, pH: 7.8 – 8.5
Các mô hình nuôi cua trong hộp nhựa
Nuôi cua lột công nghiệp
ôi cua lột kết hợp cá rô phi
Nuôi cua lột kết hợp nuôi tôm quảng canh
Nuôi cua lột kết hợp trồng rong biển
Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Bệnh và cách phòng trị bệnh ở cua (Phần 2)
1. Bệnh rung chân (rũ còng)
Các cơ bị rung hoặc liệt, di chuyển chậm chạp, không phản ứng với các tác động bên ngoài, cua dừng ăn và trở nên bất động, cơ thể đổi màu hơi đen, xám hoặc hơi trắng; cơ thịt có màu đỏ; gan tụy thối rữa.
- Tác nhân gây bệnh
Do virus và ký sinh trùng rickettsia.
- Phòng trị
– Giữ gìn môi trường sống trong sạch cho cua nuôi. Ao đầm nuôi phải xây dựng ở nơi có nguồn nước tốt, độ mặn từ 15 – 25 phần ngàn, pH từ 7,5 – 8,2.
– Cải tạo ao thật kỹ trước khi thả nuôi. Phơi đáy từ 5 – 10 ngày, nếu đáy nhiều bùn thì vét bớt bùn, rác.
– Bón vôi khắp đáy và trên bờ ao, quét vôi trong và ngoài đăng chắn, làm tốt khâu cải tạo, sát trùng, loại bỏ các chất cặn bã, chất thải của quá trình nuôi trước; duy trì quản lý chất lượng nước tốt và có chế độ dinh dưỡng hợp lý cho cua.
– Hiện chưa có biện pháp chữa trị hữu hiệu nên tốt nhất chọn cua đồng đều, khỏe mạnh, màu sắc tươi sáng, tốt nhất nên lấy giống cua sản xuất nhân tạo, ương trong giai đạt kích cỡ 1,5 – 2 cm.
– Trước khi thả nên sát trùng bằng dung dịch formaline 20 – 30 ppm hoặc sunphát đồng 2 – 4 ppm trong vòng 20 – 30 phút. Có thể dùng thuốc phun vào ao trong thời gian kể từ lúc bắt đầu thả nuôi, nồng độ thuốc thấp hơn 7 – 10 ppm so với nồng độ tắm cho cua. Chỉ nên dùng với ao nhỏ, mật độ nuôi cao.
– Để phòng các mầm bệnh trong thức ăn, nhất là thức ăn tươi sống, ta có thể khử trùng thức ăn trước khi cho cua ăn. Thức ăn rửa sạch ngâm trong thuốc tím nồng độ 5 – 10 ppm trong 20 – 30 phút. Rửa lại bằng nước sạch rồi cho cua ăn. Tốt nhất nên cho cua ăn thức ăn được nấu chín.
2. Bệnh hoại tử do vi khuẩn Vibrio
Phần phụ bụng và cơ bị hoại tử, cơ thể biến đổi màu sắc, hình thành các khối u màu trắng bên trong mô cơ thể (đặc biệt là mang); cơ thể yếu và hoạt động chậm chạp, biếng hoặc không ăn.
- Tác nhân gây bệnh
Vibrio anguillarum, V. alginolyticus, V. parhaemolyticus.
- Phòng trị
– Thả nuôi với mật độ thích hợp, nên thả 1 con/m², trong quá trình lưu giữ chăm sóc chú ý tránh làm xây xát cua, đảm bảo chất lượng nước tốt; sát trùng bể ương cua bằng dung dịch KMnO4 15 – 20 ppm (mg/l); ngâm dụng cụ ương nuôi trong 50 ppm chlorin trong thời gian 1 giờ; khử trùng nước ngọt bằng 10 ppm chlorin; phun trong ao 1 ppm terramycin.
– Phun trong ao 2 – 3 mg/l terramycin hoặc 1 mg/l norfloxac một ngày một lần, trong 3 – 5 ngày, có thể dùng thức ăn trộn terramycin (0,1 – 0,2 g/kg trọng lượng cơ thể cua) cho ăn ngày 1 – 2 lần trong 7 ngày liên tục.
3. Bệnh thủng vỏ
Ban đầu những đốm màu hơi trắng trên phần bụng giáp đầu ngực và dần chuyển thành các tổn thương loét có màu nâu đen; có thể nhìn thấy vỏ, màng và lớp cơ bên trong. Bệnh thủng vỏ hiếm khi gây chết cua, nhưng nếu vỏ bị bào mòn và đục thủng trên diện rộng có thể tạo điều kiện cho các vi khuẩn thứ cấp cũng như ký sinh trùng xâm nhiễm gây bệnh.
- Tác nhân gây bệnh
Bệnh thủng vỏ do các tổn thương, xây xát do điều kiện nuôi nhốt không thích hợp, mật độ dày, môi trường nuôi bị ô nhiễm tạo điều kiện cho vi khuẩn Vibrio sp., Pseudomonas sp., Aeromonas sp., Spirillum sp., Flavobacterium sp., Vibrio vulnificus, V. parahemolyticus, V. splendidus và V. orientalis xâm nhập gây bệnh.
- Phòng trị
– Chăm sóc cẩn thận, tránh gây sốc, xây xát cua, có chế độ dinh dưỡng hợp lý, tránh gây ô nhiễm môi trường nước.
– Sử dụng vôi bón 15 – 20 ppm; duy trì chất lượng nước tốt và có độ dày lớp bùn đáy thích hợp (5 – 10 cm). Cung cấp một lớp đất cát dày thích hợp cua có thể đào được, tác dụng làm giảm stress cho cua và giảm các chất bẩn bám trên cơ thể cua.
– Định kỳ thông qua quá trình thay nước hoặc bắt mẫu, tiến hành chà và quét rửa phần lưng cho cua bằng bông gòn nhúng trong dung dịch i-ốt nhằm ngăn chặn chất dơ bám trong suốt quá trình nuôi và lưu giữ nhằm hạn chế việc phát triển của nguyên sinh động vật, là nơi cư trú của vi khuẩn phân giải kitin.
– Sử dụng chlorin 2 ppm và cho cua ăn thức ăn có trộn thuốc (sulfonamides 0,1 – 0,2% hoặc 0,05 – 0,1% terramycin) trong 5 -7 ngày liên tục; phun thuốc trong ao với liều 2,5 – 3 ppm terramycin mỗi ngày một lần, liên tục trong 5 – 7 ngày.
4. Bệnh đen mang
Biểu hiện ban đầu là các tơ mang chuyển màu nâu đen, sau đó chuyển hoàn toàn thành màu đen, cua di chuyển chậm chạp, biếng ăn, hô hấp khó khăn. Cua yếu, tạo điều kiện cho các tác nhân gây bệnh xâm nhiễm, gây chết cua.
- Tác nhân gây bệnh
Quá trình chuẩn bị ao không kỹ, điều kiện môi trường xấu do thiếu sự trao đổi nước, chất bùn lắng nhiều.
- Phòng trị
– Thả cua đúng lịch thời vụ, làm tốt khâu cải tạo, giữ lớp bùn đáy có độ dày thích hợp (5 – 10 cm). Trong thời gian thường xảy ra dịch bệnh dùng vôi nông nghiệp CaCO3 2 -3 kg/100m2 hòa nước tạt đều khắp ao; Tăng cường trao đổi nước, định kỳ tiến hành thay nước và cung cấp nước vào ao đảm bảo chất lượng nước tốt. Tránh cho ăn quá nhiều.
– Dùng vôi bón vào ao với liều lượng 15 – 20 mg/l.
5. Bệnh teo cơ (rệp cua)
- Tác nhân gây bệnh
Do ký sinh trùng Sacculina sp. bám vào phần thịt của khoang mai, có thể thấy qua lỗ thoát ở gốc càng cua. Rệp phát triển nhanh về số lượng và gây cản trở hoạt động của cua, hút chất dịch trong thịt cua, làm cua gầy và chết.
- Phòng trị
– Sát trùng ao bằng chlorin 10 ppm hoặc 100 ppm formalin và tháo bỏ lớp bùn đáy trước khi thả giống, loại bỏ những con cua bệnh, không thả cua bị nhiễm bệnh, thả cá rô phi 0,1 con/m2 để chúng sử dụng ký sinh trùng này làm thức ăn.
– Giảm độ mặn dưới 1 phần ngàn hoặc chuyển cua qua nước ngọt, tắm cua trong dung dịch formalin 20 – 30 ppm trong 20 – 30 phút hoặc dung dịch CuSO4 8 ppm hoặc KMnO4 20 ppm trong 10 – 20 phút, nếu phun dưới ao thì sử dụng 0,7 ppm của hỗn hợp có tỉ lệ 5:2 CuSO4 và FeSO4.
Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.