
Quy trình sản xuất giống cá bông lau nhân tạo vừa được Thạc sỹ Huỳnh Hữu Ngãi, Trung tâm Quốc gia Giống Thủy sản nước ngọt Nam bộ (Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II) nghiên cứu thành công và triển khai nhân rộng tại các tỉnh ĐBSCL.
Chọn cá bố mẹ
Cá bố mẹ được chọn ngoài tự nhiên từ các xuồng câu, chọn những cá thể khỏe mạnh, ít xây xát, giữ các cá trong bể có sục khí liên tục 3 – 4 ngày cho cá khỏe hoàn toàn rồi vận chuyển đi nuôi thuần dưỡng. Cá được nuôi chung với một số loài cá háu ăn như chép, mè vinh với mật độ 5 – 10 kg/m3. Dùng thức ăn viên với hàm lượng đạm 28 – 30%, khẩu phần ăn hàng ngày 2 – 3%.
Sau đó nuôi vỗ thành thục cá bố mẹ trong bè đặt trên sông, kích thước (8x4x3)m= 96 m3, bè được đặt nổi và neo trên sông cố định, nơi có dòng chảy thẳng và liên tục. Nơi đặt bè không ảnh hưởng đến giao thông, nước sông nơi đặt bè không bị phèn, mặn, xa cống nước thải và thuận lợi trong giao thông, vận chuyển thức ăn.
Cá bố mẹ chọn nuôi được đánh số thứ tự cho cá bố mẹ bằng que nhọn đầu đánh số lên đầu của cá (dùng số thường đánh cho cá cái, số la mã đánh cho cá đực). Mùa vụ nuôi vỗ cá bố mẹ từ tháng 12 năm trước đến giữa tháng 11 năm sau. Cá thành thục và bước vào sinh sản từ tháng 8. Mùa cá đẻ kéo dài đến đầu tháng 11.
Thụ tinh nhân tạo
Ở cá bông lau nhìn bên ngoài rất khó phân biệt đực cái. Khi đến mùa sinh sản mới có sự biểu hiện ra bên ngoài, cụ thể cá đực có lỗ sinh dục dạng hơi tròn lồi ra, còn cá cái lỗ sinh dục hơi lõm vào hơn so với cá đực.
Chọn cá đực là những cá thể khỏe mạnh, vuốt ở mặt bụng gần lỗ sinh dục có tinh màu trắng sữa chảy ra. Chọn cá cái là những cá thể có bụng to, dùng que thu trứng quan sát tế bào trứng khi thấy hạt trứng to, tương đối đồng đều, dễ tách rời nhau, đo kích thước tế bào trứng phải đạt trung bình từ 1,3 mm trở lên, không có trứng non. Những năm qua, do cá đực thành thục chưa tốt nên tỷ lệ đực cái nên chọn là 2:1 hoặc 3:1.
Cho cá đẻ trong bể xi măng có thể tích (3x5x1)m=15 m3, mực nước sâu 0,8 -1m chứa 6 – 10 con cá bố mẹ có khối lượng trung bình 3,5 kg/con. Cá bông lau không đẻ tự nhiên trong bè do đó phải tiêm kích dục tố để kích thích cho cá rụng trứng. Sử dụng kích dục tố HCG kích thích cá sinh sản nhân tạo như cá tra, basa. Sử dụng phép tiêm nhiều lần cho cá cái để kích thích tế bào trứng hấp thu được chất kích thích làm tăng kích thước đường kính trứng đến mức tối đa vì đây là loài cá của sông Mêkông có đường di cư dài nên chúng cần được tiêm nhiều lần dẫn với thời gian dài để cho tế bào trứng được chín đồng đều hơn.
Trong 3 – 5 liều dẫn đầu tiên sử dụng kích dục tố HCG ở mức bằng nhau 500 UI/kg, khoảng cách giữa các lần tiêm là 24 giờ. Khi trứng đã đạt mức tối đa thì tiêm liều sơ bộ với liều lượng 1.000 – 1.500 UI/kg, khoảng cách từ liều dẫn đến liều sơ bộ cũng 24 giờ. Cuối cùng là liều quyết định với mức sử dụng 5.000 UI, khoảng cách từ liều sơ bộ đến liều quyết định 8 – 10 giờ. Liều tiêm cho cá đực 2.000 – 3.000 UI/kg cùng thời gian tiêm liều quyết định của cá cái. Thời gian hiệu ứng kích thích tố từ lúc tiêm liều quyết định đến khi rụng trứng 9 – 12 giờ.
Kiểm tra cá, dùng khăn sạch lau khô toàn thân, nhất là vùng bụng cá, dùng tay vuốt từ phía sau đầu cá chạy dọc theo 2 lườn bụng đến điểm cuối là lỗ sinh dục thì thấy trứng chảy thành dòng từ lỗ sinh dục cá cái. Ở cá đực, tinh cũng thoát ra từ lỗ sinh dục có màu trắng sữa. Trước khi thấy dấu hiệu rụng trứng thì tiến hành thu tinh cá đực trước; tinh được giữ trong nước muối sinh lý 0,9%. Dùng xilanh hút 2 ml nước muối sinh lý, sau đó hút 0,5 ml tinh bảo quản ở nhiệt độ thấp để kéo dài thời gian sống của tinh trùng.
Sau đó tiến hành vuốt trứng, bằng phương pháp thụ tinh khô, dùng lông gà quấy đều trứng và sẹ (tinh dịch), trong lúc quấy đều hỗn hợp trứng và sẹ cho thêm nước sạch vào từ từ và tạo điều kiện cho tinh trùng hoạt động, tăng xác suất thụ tinh cho trứng. Cá bông lau là loài cá rất yếu. Vì thế quá trình kiểm tra sự thành thục cũng như chọn lựa cá bố mẹ cho sinh sản thì thao tác phải nhanh, nhẹ nhàng. Chỉ được phép đưa cá vào băng ca kiểm tra và tiêm kích dục tố ngay dưới nước. Đối với cá cái, thời gian hiệu ứng kích thích tố là 12 giờ tính từ khi tiêm liều quyết định.
Ương cá
Cá bột bông lau sau khi nở 24 giờ thì tiêu hết noãn hoàng và bắt đầu ăn thức ăn bên ngoài, chủ yếu là động vật phù du. Ương cá bông lau chia thành 2 giai đoạn.
Giai đoạn 1, sau khi nở 24 giờ, cá bột được ương trong bể composite, mỗi bể thể tích là 1m3, mật độ từ 300 con/m3. Thay nước trong quá trình ương mỗi ngày một lần, mỗi lần 20 – 30% lượng nước trong bể. Trong 10 ngày đầu cho ăn Moina hoặc Moina kết hợp với Nauplius của Artemia. Từ ngày thứ 11 đến ngày thứ 20 cho ăn Moina kết hợp với thức ăn dạng bột mịn 40% đạm. Từ ngày thứ 21 đến ngày thứ 30 cho ăn thức ăn mảnh 40% đạm. Sau 30 ngày tuổi cá đạt 0,21 – 0,7 g và dài 28 – 45 mm. Tỷ lệ sống của cá sau 30 ngày tuổi đạt 30,8 – 90,8%.
Giai đoạn 2, có thể ương cá bột trong bể composite thể tích 1 m3 với nhiều mật độ khác nhau như: 50, 100 hay 200 con/m3. Dùng một loại thức ăn viên có hàm lượng đạm 40%, sau 60 ngày tuổi cá đạt trọng lượng 3,2 – 3,5 gam/con, tương đương chiều dài 72,2 – 73,3 mm, tỷ lệ sống 10,9 – 98%.
Việc xác định thời gian hiệu ứng nhằm theo dõi chính xác thời điểm rụng trứng để tiến hành sinh sản nhân tạo được kịp thời. Trứng cá bông lau thuộc loại trứng dính nên sau khi cá đẻ, trứng được khử dính bằng dung dịch Tanin, sau đó được rửa lại bằng nước sạch và đem ấp trong bình Weiss sau 24 – 25 giờ thì trứng nở ở nhiệt độ 28 – 300C.
Theo Thành Công, Thủy sản Việt Nam
Nguồn

Các đại biểu tham quan thực tế tại ao nuôi cá bông lau của ông Lâm Thành Lâm ở ấp An Quới, xã An Thạnh 3.
Mô hình nuôi cá bông lau được thực hiện từ tháng 1-2018, có 3 hộ dân ở xã An Thạnh 3 được chọn để tham gia thực hiện mô hình trình diễn. Sau thời gian nuôi khoảng 11 tháng, kết quả, tỷ lệ sống ước đạt 70 – 80%, trọng lượng trung bình đạt 1 – 1,2kg/con và có thể thu hoạch nếu được giá.
Tại hội thảo, các đại biểu được hướng dẫn kỹ thuật sản xuất giống và ương cá bông lau. Qua đó, các đại biểu cũng trao đổi và chia sẻ một số kỹ thuật nuôi cá bông lau như: cải tạo ao, chọn giống, phòng và trị bệnh trên cá và cách quản lý môi trường ao nuôi cá.
Tiến sĩ Nguyễn Quang Trung – Chủ nhiệm dự án cho biết: “Mục tiêu của dự án nhằm xây dựng thành công mô hình nuôi cá bông lau trong ao đất, góp phần tăng thu nhập cho các hộ nuôi thủy sản, phát triển bền vững nghề nuôi trồng thủy sản ở tỉnh Sóc Trăng; đồng thời, đa dạng hóa các đối tượng nuôi cho người dân, góp phần bảo tồn và phát triển nguồn lợi thủy sản trên địa bàn tỉnh”.
Tuyết Xuân
Nguồn
Lập nghiệp thành công nhờ nuôi cá bông lau, lãi 1 tỷ/năm
Ông Nguyễn Văn Kiệt, huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng đã thành công với mô hình nuôi cá bông lau, mỗi ông Kiệt thu khoảng 1 tỷ đồng.
Ông Nguyễn Văn Kiệt, 56 tuổi ngụ ấp Vàm Hồ, xã An Thạnh Nam, huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng nhiều năm nay thành công với mô hình nuôi cá bông lau-loài cá đặc sản có cái miệng rộng. Năm 2018 này, gia đình ông Kiệt thu khoảng 1 tỷ đồng tiền lãi từ nuôi cá bông lau.
Chúng tôi đã vượt trên 40 km đường giao thông nông thôn tương đối khó khăn trên huyện Cù Lao Dung để tìm hiểu về mô hình nuôi cá bông lau duy nhất, rất thành công của ông Nguyễn Văn Kiệt, 56 tuổi ngụ ấp Vàm Hồ, xã An Thạnh Nam-xã cuối cùng trên cù lao nằm giữa sông Tiền và sông Hậu.
Anh Dương Thanh Tràng, cán bộ nông nghiệp xã An Thạnh Nam cho biết : “Ông Kiệt là người đầu tiên áp dụng mô hình nuôi cá đặc sản bông lau trên địa bàn huyện. Sau này, có nhiều người cùng làm theo nhưng không thành công nên chán, bỏ nghề, chỉ còn ông Kiệt vẫn duy trì và phát triển tốt, nên năm nào nuôi cũng trúng lớn, vậy mới ngon…”.
Ông Nguyễn Văn Kiệt thu hoạch và xuất bán cá bông lau. Ảnh: Báo Sóc Trăng.
Xã An Thạnh Nam có rất nhiều dãy đất tiếp cửa sông lớn, từ đó có rất nhiều người dân sinh sống bằng nghề cào lưới biển nên nguồn cá bông lau các cỡ có rất nhiều. Theo nhiều người dân tại đây cho biết : cá bông lau có 2 dạng sinh sống ở nước vùng nước ngọt đầu nguồn và cá ở vùng nước mặn tiếp giáp nước ngọt (còn gọi là nước lợ) tại sông lớn. Tuy nhiên nhiều thương lái đánh giá chất lượng cá bông lau vùng nước lợ ngon hơn nên giá mua cũng cao hơn từ 10.000 đến 15.000 đồng/ký.
Biết được đặc điểm trên, từ năm 2011, trên diện tích 8.000m2 mặt nước ( 8 công), ông Kiệt thả nuôi 12.000 con cá giống bông lau với giá mua 5.000 đồng/con từ các ghe tàu đánh bắt ngoài sông lớn. Sau 2 tháng nuôi, ông xuất bán khoảng 5.000 cá con giống với giá từ 12.000 đến 15.000 đồng/con; số còn lại ông nuôi thêm 10 tháng nữa và xuất bán được 8 tấn với giá 100.000 đồng/ký. Ở vụ nuôi đầu tiên này, sau khi trừ hết chi phí, ông Kiệt đã lãi được 800 triệu đồng từ tiền bán cá bông lau giống và cá bông lau thịt.
Cá bông lau do ông Kiệt thả nuôi bán với giá cao, dao động từ 110-130.000 đồng/ký.
Ông Kiệt cho biết một số kinh nghiệm nuôi cá bông lau đặc sản: “Mùa cá bông lau sinh sản thường từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Thời điểm này nguồn cá giống trên các sông khá nhiều. Vì vậy, muốn nuôi cá bông lau, lúc này người nuôi thu mua nguồn cá giống từ những người làm nghề đăng lưới, đẩy xiệp ven sông lớn, trên các bãi bồi dưới chân rừng ngâp mặn. Nguồn con giống các bông lau ngoài tự nhiên khá nhiều, người nuôi chỉ tốn công ương dưỡng. Thức ăn cho cá bông lau chủ yếu từ nguồn cá vụn nên cũng dễ tìm và chi phí thấp…“.
Từ năm 2014 đến nay, ông Kiệt đã chuyển hoàn toàn sang phương án nuôi và bán cá bông lau thịt. Ông lý giải: “Hiện nay nguồn cá giống bông lau bị săn bắt ráo riết ngoài tự nhiên với đủ loại dụng cụ đánh bắt. Cá này thường rất yếu và độ rủi ro cao dễ dẫn đến hao hụt cho người nuôi. Cạnh đó, tôi chỉ mua loại cá bông lau đạt chuẩn để nuôi bán cá thịt. Làm vậy để cho “ chắc ăn” lại vừa góp phần không để cá con bị tận diệt rất oan uổng”.
Ông Kiệt chia sẻ thêm: “Nuôi cá bông lau phải hết sức chú ý đến các loại dịch bệnh dễ phát sinh như đầy ruột, trắng mai…Ao nuôi cá bông lau phải sạch sẽ, thông thoáng…Mỗi ngày cá bông lau ăn 2 lần vào buổi sáng và buổi chiều. Nếu nuôi nhiều thì dùng thức ăn là cám viên công nghiệp cho cá bông lau. Nếu nuôi đúng chuẩn thì sau 12 tháng, cá bông lau sẽ đạt trọng lượng từ 1-1,2 ký/ con…“.
Năm 2017, ông Kiệt đã xuất bán được 11 tấn cá bông lau với giá 110.000 đồng/ký, trừ hết chi phí, ông đã lãi ròng trên 800 triệu đồng. Năm 2018, ông Kiệt thu hoạch ước đạt 12 tấn cá bông lâu, với giá thương lái thu mua đặt cọc là 135.000 đồng/ký, ông Kiệt thu lãi 1 tỷ đồng.
Thừa thắng xông lên, trong năm 2018, từ nguồn lãi nuôi cá bông lau tích cóp các năm trước, ông Kiệt đã thuê thêm 40.000m2 mặt nước cạnh sông Tiền để thả nuôi 300.000 con tôm càng xanh và trăm ngàn con cá tra. Tôm càng xanh, cá tra càng về cuối năm 2018 giá bán càng tốt, ông Kiệt lãi ròng 1 tỷ đồng từ 2 loài thủy sản này.
Tựa bài do enternews đặt
Theo Dân Việt
Nguồn
Nuôi cá bông lau, lãi nửa tỷ mỗi năm
Ông Lâm Văn Bình, ấp Giồng Bàng, xã Long Vĩnh, huyện Duyên Hải (Trà Vinh) vừa thu hoạch hơn 2 tấn cá bông lau thương phẩm được nuôi trong diện tích gần 2 ha ao nuôi tôm sú, đạt lợi nhuận trên 500 triệu đồng. Đây là mô hình nuôi thủy sản mới, có nhiều ưu thế để nhân rộng, tăng thu nhập cho nông dân.
Ông Lâm Văn Bình cho biết, xuất phát từ nghề nuôi tôm sú, tôm thẻ chân trắng bán thâm canh gặp nhiều rủi ro, qua tìm hiểu, năm 2017, ông mạnh dạn chuyển sang nuôi cá bông lau. Với diện tích 3 ao, tổng diện tích gần 2ha mặt nước, ông thả nuôi 20.000 con cá giống, sau 1 năm nuôi, cá đạt trọng lượng từ 1,2 – 1,5 kg, giá bán 130.000 đồng/kg, trừ chi phí, lãi ròng trên 500 triệu đồng.
Theo ông Bình, từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, là mùa cá bông lau sinh sản nên nguồn cá giống trên các sông khá nhiều. Vì vậy, muốn nuôi cá bông lau, người nuôi phải “đặt hàng” nguồn con giống từ những người làm nghề đăng lưới, đẩy xiệp ven sông, trên các bãi bồi dưới chân rừng đem về ương dưỡng đạt kích cỡ như cá tra giống mới thả nuôi. Nguồn con giống tự nhiên khá nhiều, người nuôi chỉ tốn công ương dưỡng. Cá bông lau dễ nuôi, ít bệnh nên không tốn nhiều công chăm sóc. Thức ăn cho cá bông lau chủ yếu từ nguồn cá vụn nên cũng dễ tìm và chi phí thấp.

Cá bông lau.
Hiện nay, ngoài việc tiếp tục nuôi cá bông lau, ông Bình còn ương dưỡng hơn 20.000 con cá bông lau để bán cá giống cho các hộ tại địa phương chuyển đổi nghề nuôi tôm. Cá bông lau giống được ông bình bán với giá 20.000 đồng/con.
Ông Trần Quốc Đoàn, Quyền Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Duyên Hải cho biết, hiện nay mô hình nuôi cá bông lau đã được nhân rộng thêm 7 hộ dân trong xã Long Vĩnh, với diện tích 3,2 ha, số lượng cá giống hơn 49.000 con. Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện đã có kế hoạch hỗ trợ cho nông dân về mặt kỹ thuật từ việc dưỡng con giống đến quá trình nuôi nhằm đảm bảo tính hiệu hiệu quả.
Cá bông lau có giá trị kinh tế cao trên thị trường hiện hiện nay. Vì vậy, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện có kế hoạch đưa đưa cá bông lau vào danh sách vật nuôi trong chương trình đa dạng hóa con nuôi cho nghề thủy sản của huyện. Đơn vị cũng đang đề Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện tỉnh, Sở Công Thương hỗ trợ thêm về mặt xây dựng qui trình kỹ thuật, tìm đầu ra cho cá bông lau thương phẩm để khuyến khích các hộ dân nhân rộng mô hình thay thế diện tích nuôi tôm quảng canh, bán thâm canh vùng nước ngọt trong mùa mưa và nước lợ trong mùa nắng không đảm bảo hiệu quả.
Theo Dân tộc & Miền núi
Nguồn